Đăng lúc

[Câu hỏi] Khi đặt tên cho trẻ sơ sinh, liệu người bảo hộ có được đặt tên bằng các con số hay ký tự đặc biệt không?


Khi đặt tên cho con trẻ, bố mẹ hoặc người bảo hộ luôn muốn con mình có cái tên “kêu” nhất, hay nhất, độc đáo nhất, tuy nhiên vẫn cần phải tuân thủ theo quy định pháp luật. Việc tuân thủ này thực chất là đang bảo vệ quyền con người của chính đứa trẻ và của toàn xã hội. Vậy có được đặt tên cho trẻ bằng các con số hay ký tự đặt biệt không? Hãy cùng Mombaybi làm rõ vấn đề này qua bài viết chi tiết dưới đây:

Các quyền nhân thân của cá nhân ngày càng được pháp luật ghi nhận, tôn trọng và ngày càng hạn chế việc áp đặt các quy định cấm liên quan đến việc thực hiện các quyền nhân thân của công dân, trong đó có quyền đối với họ, tên. Việc đặt tên bị hạn chế khi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

naming-2.webp

Ý nghĩa quan trọng của việc xác định họ và tên của một người

Xác định họ và tên của một người là một phần quan trọng trong việc xác định và định danh cá nhân. Họ và tên là cách mà mọi người được gọi và nhận dạng trong xã hội. Dưới đây là ý nghĩa quan trọng của việc xác định họ và tên của một người:

  • Định danh cá nhân: Họ và tên là cách chính thức để xác định và định danh một cá nhân. Nó là cách mọi người được gọi và giao tiếp với người đó trong cuộc sống hàng ngày.
  • Liên kết với gia đình và dòng họ: Họ thường liên quan đến gia đình và dòng họ. Nó có thể thể hiện nguồn gốc gia đình và quan hệ gia đình.
  • Pháp lý và hành vi dân sự: Họ và tên được sử dụng trong nhiều tài liệu pháp lý, giấy tờ chính thức, và hành vi dân sự như hôn nhân, quyền thừa kế, giao dịch tài sản, đăng ký hộ tịch, và nhiều hoạt động pháp lý khác.
  • Nhận dạng trong xã hội: Họ và tên giúp người khác nhận dạng và giao tiếp với bạn. Nó giúp xây dựng danh tiếng cá nhân và tạo sự nhận thức về bạn trong xã hội.
  • Bảo vệ quyền và lợi ích cá nhân: Họ và tên có thể liên quan đến quyền và lợi ích cá nhân của bạn. Việc có một tên đúng và hợp lệ quan trọng trong việc đảm bảo quyền của bạn trong hệ thống pháp luật và xã hội.
  • Bảo tồn bản sắc cá nhân và văn hóa: Tên có thể phản ánh bản sắc cá nhân và văn hóa. Nó có thể thể hiện nguồn gốc, truyền thống văn hóa, và giá trị cá nhân.
  • Tóm lại, việc xác định họ và tên của một người không chỉ đơn giản là việc gọi họ, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc trong việc xác định và định danh cá nhân, bảo vệ quyền và lợi ích cá nhân, liên kết với gia đình và văn hóa, và giao tiếp trong xã hội và trong phạm vi pháp lý.

    Cách xác định họ, tên, tên gọi của một cá nhân

    Trong các yếu tố đặc định hóa cá nhân thì họ, tên thường được coi là yếu tố cơ bản nhất, họ của một người thể hiện nguồn gốc huyết thống của người đó, tên của một cá nhân là công cụ cá biệt hóa từng cá nhân.

    Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu cách xác định họ tên, tên gọi của một người. Dẫn theo Điều 26 của Bộ luật Dân sự 2015, quyền có họ, tên được quy định tại Điều 26, thuộc Mục 2 quy định về quyền nhân thân (bao gồm cả chữ đệm, nếu có) được xác định dựa trên họ và tên khai sinh của người đó. Họ và tên của một người đều có sự quy định cụ thể sau:

    • Họ của cá nhân:
      • Họ của cá nhân có thể được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ. Nếu không có thỏa thuận nào, thì họ của người con sẽ được xác định theo tập quán.
      • Trong trường hợp không xác định được cha đẻ, thì họ của người con sẽ được xác định theo họ của mẹ đẻ.
    • Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi:
      • Nếu trẻ em bị bỏ rơi và không thể xác định cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nhưng được nhận làm con nuôi, thì họ của trẻ em sẽ được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi, tùy thuộc vào thỏa thuận của cha mẹ nuôi.
      • Nếu chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi mà không có thỏa thuận, thì họ của trẻ em sẽ được xác định theo họ của người đó.
    • Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa được nhận làm con nuôi: Trong tình huống trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ hoặc mẹ đẻ, và chưa được nhận làm con nuôi, họ của trẻ em sẽ được xác định dựa trên đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
    • Tên của cá nhân: Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ. Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.

    Có được đặt tên cho con bằng các con số hoặc ký tự đặc biệt không?

    Tất cả cá nhân đều có quyền có họ và tên và chúng được xác định trong giấy khai sinh. Tuy nhiên, theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Thông tư 04/2020/TT-BTP hướng dẫn Luật Hộ tịch, có một số tên gọi bị cấm đặt tại Việt Nam với mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Một trong những tên gọi không được phép sử dụng trong giấy khai sinh bao gồm việc đặt tên bằng số, một ký từ mà không phải chữ.

    Tại Việt Nam, việc đặt tên cho con cái phải tuân theo một số quy định và giới hạn nhất định, và một trong những giới hạn quan trọng đó là việc cấm đặt tên bằng số hoặc các ký tự đặc biệt không phải là chữ.

    Cấm đặt tên bằng số: Việc đặt tên cho con bằng số không được phép theo quy định của pháp luật tại Việt Nam. Tên của cá nhân phải là một chuỗi ký tự chứa ít nhất một chữ cái.

    Cấm đặt tên bằng các ký tự đặc biệt: Các ký tự đặc biệt như @, #, $, % và các ký hiệu tương tự không được phép sử dụng trong việc đặt tên con. Mục tiêu của quy định này là bảo đảm tính chính xác và rõ ràng của tên cá nhân, đồng thời ngăn chặn việc đặt tên mà có thể dẫn đến những hiểu lầm hoặc khó hiểu.

    Việc cấm đặt tên cho con bằng các con số tại Việt Nam có một số lý do quan trọng:

    • Bảo đảm tính cá nhân và độc đáo: Tên cá nhân là một phần quan trọng của danh tính cá nhân và độc đáo của mỗi người. Sử dụng con số làm tên không chỉ làm mất đi tính độc đáo mà còn có thể gây hiểu lầm hoặc xúc phạm đến danh tính của người đó.
    • Phòng ngừa lạm dụng: Việc đặt tên bằng các con số có thể tạo điều kiện cho việc lạm dụng, gian lận hoặc chiếm đoạt danh tính của người khác trong các hoạt động trái pháp luật.
    • Sự rõ ràng và giao tiếp: Tên cá nhân là một phần quan trọng trong việc giao tiếp và truyền đạt thông tin. Sử dụng con số làm tên có thể làm cho giao tiếp trở nên mơ hồ và khó hiểu.
    • Tôn trọng văn hóa và truyền thống: Việt Nam có một lịch sử và truyền thống văn hóa phong phú. Tên cá nhân thường mang trong nó giá trị văn hóa và truyền thống quan trọng. Việc đặt tên bằng con số không phản ánh hay tôn trọng giá trị này.

    Cho bố mẹ: Một số điểm cần lưu ý trước khi đặt tên cho con trẻ

    Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 14 Luật Hộ tịch năm 2014, thông tin về họ, tên, chữ đệm là một trong các nội dung của việc đăng ký khai sinh. Cần lưu ý là, trên thực tế, có trường hợp tập quán của một số đồng bào dân tộc (ví dụ dân tộc Jrai (Gia Rai), dân tộc Bahnar (Ba Na)) ở nước ta không có họ dẫn đến tờ khai sinh của cá nhân không có họ. Hiện tại cũng đang có những quan điểm về quyền dân chủ và các câu hỏi mà các cán bộ, hội Luật gia, luật gia Thiều Hữu Minh thường nhận được trong các chuyến đi tuyên truyền, phổ biến pháp luật hoặc trợ giúp pháp lý tại cơ sở trên địa bàn sinh sống của nhóm dân tộc này ở tỉnh Gia Lai.

    Vấn đề này cần được nhìn nhận và giải quyết ở góc độ việc có họ là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân và không phải là nghĩa vụ, bởi vậy, không có quy định nào bắt buộc một cá nhân phải có họ hoặc cá nhân sẽ bị hạn chế quyền (quyền tự do đi lại, quyền lao động…) nếu giấy khai sinh không ghi nhận họ. Bởi vậy, cơ quan, tổ chức có liên quan cần tôn trọng cấu thành tên gọi của cá nhân đó thể hiện trên giấy khai sinh của họ.

    Trước đây, việc xác định họ của cá nhân chưa thật sự rõ ràng, Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định quyền có họ và tên của cá nhân cũng như căn cứ xác định họ và tên theo tên khai sinh (khoản 1 Điều 26). Cùng với Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị định số 158/2005/NĐ-CP) cũng có nhiều điểm chưa rõ ràng, thống nhất trong việc xác định họ của cá nhân, dẫn đến tình trạng có hai luồng quan điểm về vấn đề xác định họ của một cá nhân khi sinh ra.

    1. Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc xác định họ của đứa trẻ được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn họ bố hoặc họ mẹ, bởi khi đi đăng ký khai sinh, người đi đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ.
    2. Quan điểm thứ hai cho rằng, pháp luật không đưa ra quy định cấm đứa trẻ sinh ra không được mang họ khác với họ của cha hoặc họ của mẹ nên cá nhân sinh ra có thể được đặt tên theo họ thứ ba khác. Việc xác định họ theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, khi đăng ký khai sinh, người đi đăng ký có yêu cầu được đăng ký theo họ người thứ ba (không phải họ của cha hoặc họ của mẹ) thì các cán bộ tư pháp - hộ tịch có quyền từ chối với lý do trái với quy định của pháp luật.

    Đồng thời, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã bổ sung quy định về xác định họ của trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ trên cơ sở luật hóa các quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP (Thông tư số 01/2008/TT-BTP).

    Đối với việc đặt tên cho con giống với tên các bậc danh nhân, người vĩ đại: khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015 thể hiện: “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”; “việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”. Như vậy, luật không cấm việc đặt tên trùng với tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc hoặc các quy định cấm khác.

    Đối với vấn đề bổ sung chữ đệm trong tên của một người

    Chữ đệm là một thành tố độc lập so với họ, tên và là thành tố có thể tùy nghi (có hoặc không có khi đăng ký khai sinh). Mặt khác, luật cũng không giới hạn số ký tự hoặc từ trong việc đặt tên của cá nhân nên có thể hiểu số lượng chữ đệm trong tên của một cá nhân là do người đi đăng ký khai sinh quyết định lựa chọn trên cơ sở cân nhắc tính phù hợp và thuận tiện cho quá trình sử dụng tên đó.

    Có một vấn đề mà các bậc cha mẹ cần chú ý là: giả sử, nếu một người đã được đăng ký và được cấp giấy khai sinh, đến một thời điểm nào đó, cha mẹ của họ (khi chưa thành niên) hoặc bản thân cá nhân đó (khi đã thành niên) muốn thực hiện thủ tục với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bổ sung chữ đệm vào tên của mình thì có được không?

    Trước đây, khi thực hiện theo Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và Thông tư số 01/2008/TT-BTP, vì còn nhiều quy định chưa được quy định rõ ràng và có nhiều cách hiểu khác nhau nên thực tế, việc bổ sung chữ đệm trong vấn đề đặt ra trên đây vẫn thực hiện được, hoàn toàn bình thường (ví dụ: Đã đăng ký khai sinh tên Nguyễn Thị Lý thì có thể bổ sung thêm chữ đệm “Thiên” vào thành tố tên để thành Nguyễn Thị Thiên Lý).

    Tuy nhiên, trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hộ tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch và các thông tư hướng dẫn của Bộ Tư pháp thì còn nhiều cách hiểu khác nhau đối với vấn đề bổ sung chữ đệm trong vấn đề đặt ra trên đây nên người có nhu cầu bổ sung không thực hiện được.

    Có ý kiến cho rằng, yêu cầu này của công dân không thuộc các trường hợp được thay đổi (vì không có lý do để thay đổi), không thuộc trường hợp cải chính (vì việc đăng ký trước đây hoàn toàn đúng) và cũng không thuộc trường hợp bổ sung hộ tịch (vì thực tế đã đăng ký 01 chữ đệm trong tên) do pháp luật chưa có hướng dẫn đối với trường hợp đăng ký bổ sung chữ đệm nên không thể thực hiện thủ tục bổ sung theo yêu cầu của công dân.

    Một luồng ý kiến khác lại cho rằng, vì pháp luật không có quy định giới hạn số lượng chữ đệm trong tên và tại khoản 13 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 có quy định “bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký” mà thực tế, thông tin chữ đệm này khi đăng ký khai sinh chưa đăng ký nên công dân được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước đăng ký, vì theo nguyên tắc công dân được quyền làm những gì pháp luật không cấm.

    Xét trên các quy định về quyền có họ, tên và quyền thay đổi họ, tên thì việc bổ sung chữ đệm vào thành tố tên của cá nhân là hoàn toàn chính đáng và việc bổ sung chữ đệm không làm thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ đã được cá nhân xác lập với tên khi chưa bổ sung chữ đệm mới.

    Ngoài quy định cơ bản này, còn có những hướng dẫn cụ thể khác về việc đặt tên con tại Việt Nam, bao gồm việc tuân theo quy định về sự tôn trọng và bảo tồn văn hóa dân tộc, việc không đặt tên gây hiểu lầm hoặc xúc phạm đến người khác và việc đảm bảo tính đa dạng và an ninh về tên gọi trong xã hội. Những quy định này giúp đảm bảo rằng việc đặt tên con ở Việt Nam tuân theo quy định pháp luật và các giới hạn cần thiết.

    Vì vậy, để có thể tìm ra cho con mình một cái tên hay, đẹp, ý nghĩa và hợp lý thì bố mẹ hãy tham khảo cẩm nang đặt tên con Mombaybi để không phải "hối hận muộn màng" như trong bài viết này nhé!




    ⌘ Đề xuất thêm 3 tên gọi (giới tính Nam):


Danh bạ tên theo chữ cái
Tên con trai được nhiều người quan tâm tháng 5
Tên View
1 Danh 6535
2 Khoa 6205
3 Thái 6000
4 Phát 5276
5 4758
6 4450
7 Hiển 3498
8 Đức 2586
9 Giang 2455
10 Nghĩa 1378
Xem thêm
Tên con gái được nhiều người quan tâm tháng 5
Tên View
1 Hoa 5556
2 Diệp 5133
3 Anh 4973
4 Nhi 4543
5 Giang 4123
6 Ngân 3808
7 Phương 3549
8 Thảo 3505
9 Vân 3427
10 Uyên 2984
Xem thêm